Thư gửi ông Michael Michalak,
đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
Nam California, ngày 14-10-2007
Kính thưa ông Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam,
Tôi là Nguyễn Chính Kết, một người đang tranh đấu cho nhân quyền và tự do dân chủ ở trong nước, thuộc Khối 8406 và Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam, hiện đang làm công tác vận động dân chủ tại hải ngoại. Tôi rất hân hạnh được gặp Ông hôm nay và muốn trình bày với Ông một vài điều mà cả hai chúng ta cùng quan tâm về Việt Nam.
Một vài nhận định về quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
1) Quan hệ giữa Hoa Kỳ (hay những quốc gia tự do khác) với Việt Nam là một quan hệ rất phức tạp, có nhiều bất trắc vì tính gian trá và phản trắc của CSVN. Quan hệ này cũng chứa đựng nhiều rủi ro tương tự như quan hệ giữa Hoa Kỳ với các chế độ độc tài Taliban, Iraq trước kia. Hay tương tự như một người đàng hoàng mà làm ăn với một kẻ bất chính…
Hiện nay, Đảng CSVN phải đu giây chính trị giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc với mục đích duy nhất là để bảo vệ và duy trì độc quyền thống trị đất nước. Tục ngữ chúng tôi có câu “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (tương đương với tục ngữ Latinh: Similis similem quaerit): những bọn độc tài thì hay thân thiết với nhau. Do đó, họ sẵn sàng chống lại Hoa Kỳ và bám vào Trung Quốc bất kỳ lúc nào họ thấy việc quan hệ với Hoa Kỳ trở nên bất lợi cho cho chế độ độc tài của họ.
Quan hệ ngoại giao và thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ tốt đẹp và bền vững khi nó được xây dựng trên nền tảng là cả hai quốc gia cùng theo chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng và pháp trị. Do đó, muốn ích lợi lâu dài trong quan hệ với Việt Nam, Hoa Kỳ cần giúp Việt Nam trở thành một quốc gia dân chủ đa đảng.
2) Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang theo chính sách hai mặt mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, đối nội và đối ngoại, lời nói và việc làm… và luôn luôn tìm cách lường gạt không chỉ người dân trong nước mà cả thế giới nữa. Do đó, không thể tin tưởng bất cứ một điều gì Cộng Sản Việt Nam hứa hẹn hay cam kết. Cũng không đáng tin những người mà Cộng Sản Việt Nam dàn xếp cho ông gặp, dù là những hạng người mà bình thường là đáng tin.
3) Hoa Kỳ là một nước lãnh đạo thế giới trong các vấn đề dân chủ và nhân quyền đặc biệt từ bản tuyên ngôn độc lập của quý quốc. Mọi học sinh từ ghế nhà trường trên toàn thế giới – trừ Việt Nam – đều biết tượng Nữ Thần Tự Do là biểu tượng sáng rực của Hoa Kỳ. Dân chủ, nhân quyền, tự do là những đặc tính bẩm sinh của mỗi người trên trái đất. Dân tộc Việt Nam không ra ngoài định luật này. Thế nhưng hơn 60 năm nay, quyền tự do của người dân Việt Nam đã bị Cộng Sản Việt Nam chà đạp. Một hình ảnh làm tôi nhớ mãi: tháng 7 năm 2007 một dân oan ở Sàigòn trước khi bị cảnh sát vất lên xe cây đã gào lên: “Tổng thống Bush ơi, hãy giúp chúng tôi! ” Có lẽ tôi không cần thêm gì vào lời kêu gọi này để gửi đến Ông Đại sứ và quý quốc.
Một vài nhận định về vấn đề tự do tôn giáo
1) Tự do tôn giáo tại Việt Nam không hệ tại việc nhà nước cho xây cất nơi thờ tự, cho tổ chức lễ hội, cho chức sắc ra ngoại quốc (Cộng Sản Việt Nam thường tuyên truyền) nhưng hệ tại việc các giáo hội được độc lập trong tổ chức và tự do trong sinh hoạt (không bị khống chế kiểm soát về quy chế, nhân sự, sinh hoạt, tài chánh, liên lạc). Nói cụ thể là:
– các giáo hội đăng ký sinh hoạt thì phải được công nhận (hiện tại, nhà nước mới chỉ công nhận 16 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo [Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo và Hồi giáo] đang khi số tổ chức tôn giáo đăng ký thì gấp nhiều lần.
– các giáo hội không bị kiểm soát và khống chế trong việc chiêu sinh, huấn luyện và bổ nhiệm nhân sự.
– các giáo hội phải được quyền giáo dục giới trẻ từ mẫu giáo lên đến đại học.
– các giáo hội phải được thủ đắc các phương tiện truyền thông xã hội.
2) Những tự do cơ bản này chưa có tại Việt Nam, thế mà đặc sứ John Hanford trong các cuộc họp báo hay phỏng vấn lại nói:
– “Trong hai muơi năm ở nhiệm vụ này, tôi chưa từng thấy một nước nào trên thế giới chuyển hướng ngược hẳn lại nhanh chóng như vậy (ie. như Việt Nam) về tự do tôn giáo trong khi vẫn tiến vững chắc trong khuynh hướng chính trị, không hoàn toàn thay đổi chế độ chính trị” (tháng 5/2007, trong cuộc họp báo liên quan đến việc đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC).
– “Cách nay mới mấy năm ở Việt Nam còn có mấy chục người bị giam cầm vì lý do tôn giáo, hằng trăm cơ sở tôn giáo bị đóng cửa, cả một chiến dịch toàn quốc bắt tín đồ chối bỏ đức tin. Nhưng chính quyền Việt Nam đã có những quyết định tỉnh táo, thay đổi hẳn chính sách ấy. Họ cho phép người dân được tự do tôn giáo ở mức độ cao hơn nhiều. Người tù tôn giáo cuối cùng trong danh sách của Mỹ muốn được trả tự do đã được thả vào tháng chín năm ngoái”. Thực ra chính sách tôn giáo của Việt Nam về bản chất vẫn không có gì thay đổi, và hiện nay nhiều lãnh đạo tinh thần vẫn còn bị giam giữ.
– “Hoa Kỳ tin rằng nguyên do của việc một số nhà lãnh đạo tôn giáo bị áp đặt những giới hạn về sinh hoạt thì không bắt nguồn từ những hoạt động tôn giáo của họ” (ngày 14/9/2007, trong buổi họp báo của bộ ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình tự do tôn giáo toàn cầu tại Washington). Thực ra các lãnh đạo tinh thần bị tù hay quản chế chỉ vì đã lên tiếng bênh vực cho sự thật và lẽ phải theo đòi hỏi của tôn giáo và lương tâm họ.
4) Điều đau lòng nhất cho các tôn giáo là nhà cầm quyền Việt Nam dường như đã phần nào thành công trong âm mưu biến chất các tôn giáo thành “thuốc phiện mê dân”, làm tê liệt sức phản kháng của tôn giáo đối với sự ác do chế độ gây ra, và thành công cụ cho chế độ độc tài. Họ thực hiện được điều đó bằng cách cài người vào nội bộ tôn giáo để hoạt động cho chế độ, dùng lý thuyết cộng sản để đào tạo các chức sắc tương lai của tôn giáo, dùng chiêu bài “tôn giáo không được làm chính trị” để các tôn giáo trở nên câm lặng và thụ động trước các bất công xã hội rõ ràng trước mắt… Tôn giáo nào dễ bảo dễ nghe, chấp nhận im lặng trước sự ác thì được tự do, ưu đãi; tôn giáo nào dám lên tiếng theo lương tâm, lẽ phải thì bị bách hại, cấm cách.
Đề nghị:
1) Ông Đại sứ hãy gặp gỡ và trao đổi với các nhà dân chủ tranh đấu ôn hòa ở trong nước để biết thêm về sự đàn áp, lường gạt và những cạm bẫy tinh vi, khôn khéo của chế độ; để tìm hiểu những khó khăn, nguyện vọng và phương cách dân chủ hóa đất nước của họ, đồng thời ủng hộ họ. Sự có mặt thường xuyên của ông bên cạnh những nhà dân chủ sẽ làm bạo quyền phải e ngại và chùn tay đàn áp.
2) Xin Ông mở rộng giao tiếp với nhiều thành phần dân chúng: giới trẻ, sinh viên, thanh niên, cấp lãnh đạo của giới công nhân, giới nông dân bị cướp đất, và cấp lãnh đạo các tôn giáo… để những giới bị chà đạp nhân quyền và tự do này thấy được “nước Mỹ đứng bên cạnh họ” như lời tuyên bố của tổng thống Bush trong lễ nhậm chức nhiệm kỳ II.
3) Ngoài ra, mong Ông hãy nỗ lực để chính phủ Việt Nam hiểu hai điều:
a/ Dân chủ đa nguyên – đồng nghĩa với bỏ điều 4 hiến pháp Việt Nam – không phải là “tự sát” như chủ tịch Nguyễn Minh Triết phát biểu ngày 27/8/2007, mà là điều kiện tất yếu cho một đất nước phồn thịnh và hòa bình, trong đó sẽ có chỗ đứng cho những người cộng sản yêu chuộng dân chủ thật sự.
b/ Đồng hành với Hoa Kỳ và thế giới tự do trong lãnh vực chính trị sẽ là một bảo đảm vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc chống lại tham vọng đất đai của Trung Quốc.
Tôi sẽ trở về Việt Nam trong thời gian tới để cùng sát cánh tranh đấu với đồng bào tôi cho dù có bị nhà cầm quyền độc tài khủng bố hay giam cầm. Hy vọng, nhờ Ông và chính phủ Hoa Kỳ, chúng ta sẽ có được những tin vui cho dân tộc Việt Nam khi có dịp gặp lại nhau ở Việt Nam.
Kính thư
Nguyễn Chính Kết
(nguyenchinh2007@gmail.com)
________________________________________
Xin đính kèm:
– Bản danh sách những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ trong nước.
Letter to Mr Michael Michalak,
Ambassador to Vietnam
Ambassador to Vietnam
South California, October 14, 2007
To the honorable American Ambassador to Vietnam
I am Nguyen Chinh Ket, human rights activist for freedom and democracy in Vietnam, member of Bloc 8406 and Alliance for Democracy and Human Rights for Vietnam. I am currently traveling overseas to help promote democracy for Vietnam. I am very honored to meet you today, and want to express a few matters that both of us concern.
Comment on the US-Vietnam relationship
1) The relationship between the United States (or other free nations) with Vietnam is a complicated one, full of risk, because of the deceitful and traitorous nature of the communist regime. This relationship is fully risky, as was the relationship between the US and the Taliban or Iraqi regimes in the past, or between a good businessman and an illicit person whom he associates with.
At the present time, the Vietnamese Communist Party must cling to the political pendulum between the US and China, with its only goal which is protecting and maintaining the dictatorship of ruling Vietnam. People say: "birds of a feather flock together" (as in Latin Similis similem quaerit), those are who are tyrants stick together. Therefore, they are willing to jointly fight against the US and cling to China anytime they see that the US–VN relation is disadvantageous to their tyranical regime.
The diplomatic and commercial relations between US and Vietnam is only good and stable once both nations are built on the foundation of a democratic, judicial, pluralistic, multi-party ruling government. Therefore, to have longterm benefits in the US–Vietnam relationship, The United States needs to assist Vietnam in becoming a multi-party democratic nation.
2) The Vietnamese Communist Party currently pursues a conflictingly two-faced policy: conflict between the phenomenon and essence, inland and overseas, domestic and foreign, speech and action. They constantly find ways to deceive, not just Vietnamese citizens but the whole world. Therefore, we couldn't trust in the Vietnamese Communists anything, whatever promise or pledge. We also can't trust those people sent from the Communist regime to meet you, even them who seem normally trusty.
3) The United States is a world leader in several aspects of democracy and human rights, especially since its Declaration of Independence. All students in the whole world – except Vietnam – know the Statue of Liberty as a brilliant symbol of the United States. Democracy, human rights, freedom are the natural-born basical rights for each human on earth. People of Vietnam should not be an exception.
However, for more than 60 years, the basical rights of Vietnamese people were oppressed by the Vietnamese Communist regime. A picture forever remaining in my memory is as follows: in July 2007, one poor peasant in Saigon cried out loud for help, before being thrown onto the police car: "Dear President Bush, please help us! ". Perhaps I need not to add more comment, I like to forward this desperate incident to you, the Ambassador and your nation.
Comment on Freedom of Religion
1) Freedom of religion does not consists of government's allowance to build churches, to have festivals or to permit religious leaders to travel overseas (such as propagandized by the Vietnamese Communist regime). Freedom of religion means letting an independent church operate and have freedom to function (not being controlled and disciplined by government rules, personnel, activities, finance, connections). For example:
– All registered churches should be officially recognized. At the present time, the Vietnamese Communist government only accepts 16 religious organizations that belong to 6 main religions (Buddhism, Roman Catholicism, other Christian Churches, Caodaism, Hoa Hao Buddhism, Islamism) while the number of registered religious organizations are very much greater.
– Churches should not be controlled and disciplined in the areas of personnel recruiting, training and appointment.
– Churches should legally be able to teach children from kindergarten to college.
– Churches must be allowed to have media facilities for social communication.
2) The above basical rights are not respected in Vietnam. However, through press conferences or media interviews, Ambassador John Hanford stated:
– "I would say in my 20 years of working on religious freedom issues, I've never seen a country turn around – when it was moving so strongly in one direction, turn around and undo much of the serious repression in a period of only two years without total regime change" (in 5/2007, in the press conference about the proposal to bring Vietnam back into CPC list)
– "Several years ago, there were dozens of religious prisoners, hundreds of places of worship had been closed, over a thousand. There was a national campaign in some regions at least, that involved forced renunciations of faith. The Government of Vietnam made a very conscious decision to change their policy and to grant a much higher degree of religious freedom. And they've reversed most of this. As of last September, the last prisoner on our list that we were working with them on was released". The truth is, the policy for religion in Vietnam, by nature, are still the same. No change. Currently many religious leaders are still detained in Vietnam.
– "It is our belief that in most cases, this is a result of the political views of these religious leaders and the positions that they've been taking publicly and we respect that and we, of course, believe in their freedom to do that. But we believe that the restrictions that they're placed under are not the result of their religious practices" (on 14/9/2007 in the press conference of the US State Department on the world religious freedom, in Washington DC)
4) What is most painful for the religion is that the Vietnamse Communist government seems to success partially in their satanic scheme to change essentially religions into "narcotics". The communist government want to paralyze or weakening the capacity of resistance of religions against the evil, social injustice caused by the regime, and finally to change religions into tools for the tyranical regime.
They can do such things by infiltration of their own personnel into churches working for the regime. They utilize the communist ideology to train future religious leaders. They use the label "religion cannot do politics" to silence churches and make them inactive in front of blatant social injustice… Whichever obedient churches remain silent toward the cruelty would earn freedom and special favor. Whichever churches dare to speak up for conscience and common sense would suffer persecution and mistreatment.
Proposals
1) That you, the Ambassador, meet and exchange ideas with non-violent democracy activists in Vietnam, to further understand the oppression, deception, sophisticated means and clever traps of the communist regime; to study their difficulties, aspirations, and ways of democratizing their country; and to support them. Your frequent presence beside our democracy activists will make the communist rulers flinching to repress them.
2) That you open the circles of your acquaintances to many kinds of people: young people, college students, leaders of workers, peasants whose land has been injustly confiscated, and also religious leaders. . . so that they whose human rights and freedom are trampled on can see “the Americans stand beside them” like President Bush stated during his second inauguration.
3) Furthermore, that you try harder to make the Vietnamese government understand two things:
a) Democracy – i.e. scraping the Article 4 of the Vietnamese Constitution – is not "committing suicide" as President Nguyen Minh Triet said on August 27, 2007, but rather it is a basic requirement for a wealthy and peaceful nation, where the communists who are really devoted to democracy will have a good place.
b) Going along with the United States and the free world in the political sphere will be a sure guarantee for the protection of Vietnam's national sovereignty and the independence of Vietnamese people, to fight against China's greed for our land.
I will return to Vietnam in a matter of time, to struggle closely beside my people, even if I am imprisoned or terrorized by the tyrannical communist government. Hopefully, with your help and that of the U. S. government, we will have good news for people of Vietnam when we have a chance to meet again in Vietnam.
Respectfully yours
Nguyen Chinh Ket
(nguyenchinh2007@gmail.com)
________________________________________________________
Attachment:
A list of democracy activists in Vietnam