Hiện tình đàn áp và đấu tranh tại Việt Nam

Nguyễn Chính Kết

Nguyên nhân thảm trạng hiện nay của Việt Nam

Nguyên nhân của tất cả mọi thảm trạng đang xảy ra ở Việt Nam, cũng như nguyên nhân tạo nên những cuộc đấu tranh trong nước (dù là chính trị hay phi chính trị) là do CSVN quyết tâm theo đuổi và thực hiện với bất cứ giá nào hai mục đích sau:

duy trì quyền lực vô thời hạn, không chấp nhận bị thay thế, để có thể cai trị và cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân hết thế hệ này sang thế hệ khác, hầu thực hiện mục đích thứ hai là:

thu vén quyền lợi, làm giàu trên xương máu và mồ hôi nước mắt của nhân dân.

Cả bộ máy cầm quyền CSVN đều quá rõ chế độ của họ đang đem lại tai họa vô cùng lớn lao cho dân tộc Việt Nam, nhưng họ không chấp nhận thay đổi chế độ vì lòng tham vô đáy không muốn từ bỏ những phương tiện làm giàu nhanh chóng đang nắm trong tay, đồng thời sợ rằng nếu để quyền lực lọt vào tay người khác hay tổ chức khác thì họ sẽ bị dân chúng xử tử vì đã gây ra quá nhiều tội ác (như trường hợp của Nicolae Ceausescu ở Roumanie, hay Erich Honnecker ở Đông Đức…)

I- Hiện tình đàn áp và bóc lột của CSVN

Để thực hiện hai mục đích trên, CSVN chủ trương:

1) Tăng cường ý chí lệ thuộc Trung cộng, liên kết chặt chẽ với Trung cộng để được nước này bảo vệ quyền lực cho mình; đồng thời sẵn sàng trả giá cho việc bảo vệ này bằng việc nhượng một vài phần lãnh thổ lãnh hải của tổ quốc cho Trung cộng bất chấp sự phản đối của dân chúng, thậm chí bỏ tù những ai phản đối việc nhượng đất nhượng biển này ([1]).

2) Tăng cường hệ thống pháp luật bằng cách sửa đổi từ Hiến pháp đến các luật lệ bên dưới, nhất là luật về thông tin, về đất đai, về lao động, về khiếu kiện… để tạo điều kiện dễ dàng về mặt luật pháp cho những việc làm phi pháp của giới thống trị: cướp bóc, tham nhũng, đàn áp… Nghĩa là biến những việc làm phi pháp của họ thành hợp pháp, đồng thời biến tất cả những gì bất lợi cho sự cai trị độc tài của họ – dù hợp pháp đến đâu – thành phi pháp, thành vi phạm pháp luật (để tiện xét xử và bỏ tù những ai chống đối).

3) Tăng cường bộ máy công cụ như công an các loại (phường, quận, trinh sát, điều tra, phản gián, tôn giáo, kinh tế, giao thông, bảo vệ chính trị, mạng Internet, mạng điện thoại…), Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh Niên Cộng sản… bằng cách trang bị cho họ những phương tiện hữu hiệu để theo dõi, quản lý và kiểm soát chặt chẽ tư tưởng và hành động của người dân, và để đàn áp khi cần thiết.

4) Tăng cường các dự án kinh tế để vơ vét ngân quỹ quốc gia, tiền viện trợ: Trường hợp Vinashin, tàu cao tốc, việc cho ngoại quốc thuê rừng, thuê biển, thuê đất, tổ chức kỷ niệm 1000 năm Thăng Long… Càng đưa ra thực hiện nhiều dự án kinh tế thì càng có nhiều cơ hội để tham nhũng, cắt xén…

5) Tăng cường phương sách đàn áp:

a- Khống chế và biến chất các tôn giáo: CSVN sử dụng hệ thống đàn áp để kiểm soát và khống chế các tôn giáo các mặt: quy chế, nhân sự, hoạt động, tài sản và quan hệ quốc tế ([2]). Khi không tiêu diệt hoặc khống chế được các tôn giáo, CSVN tìm cách biến các tôn giáo thành công cụ phục vụ họ, bằng cách mua chuộc hoặc gài bẫy các lãnh đạo tinh thần, ru ngủ các giáo hội bằng luận điệu “tôn giáo không làm chính trị” (câu này trên thực tế bị hiểu chệch đi là: tôn giáo không được chống lại sự ác hay bất công do nhà cầm quyền Cộng sản gây ra).

b- Kiểm soát, phân hóa giới trí thức, nắm chặt trong tay giới sinh viên học sinh: Giới trí thức và sinh viên học sinh là giới ý thức rõ nhất quyền làm người, thấy rõ nhất những sai trái của chế độ, và có nhiều phương tiện để lên tiếng chống lại chế độ độc tài bất nhân. Do đó, họ tìm cách cài người của họ vào hàng ngũ này để ly gián, khống chế…

c- Kiểm soát thông tin, ngôn luận: đánh phá các trang mạng (web), nhật ký mạng (blog) dám nói sự thật về chế độ. Công an CSVN có một ngành mới là công an mạng, được đào tạo để có thể làm hacker, xâm nhập vào máy vi tính hoặc vào email account để lấy thông tin của những ai chống đối họ, và để phá hủy những trang web hay trang blog của những người này.

d- Trấn áp dã man dân thường đòi công lý hay thậm chí chỉ vi phạm luật giao thông: mục đích là đánh phủ đầu người dân, khủng bố họ, khiến họ sợ hãi không còn dám lên tiếng chống đối, cho dù bị ức hiếp bất công ([3]).

e- Theo dõi, sách nhiễu, khủng bố, cầm tù các nhà dân chủ đối kháng: mục đích là để hạn chế mọi hoạt động của họ, nhất là không để họ liên kết với nhau thành một tập hợp hay một tổ chức. Hiện nay, CSVN có thể tạm chấp nhận cho các nhà dân chủ riêng lẻ nói xấu chế độ trên các phương tiện truyền thông, nhưng sẽ thẳng tay ngăn chặn hay trừng trị khi thấy họ liên kết với nhau.

Sắp tới ngày Đại Hội Đảng thứ XI, CSVN lại gia tăng kiểm soát chặt chẽ những hoạt động đấu tranh của các nhà dân chủ, các dân oan, các tôn giáo ([4]).

f- Sẵn sàng dùng bạo lực để ngăn cản các nhà ngoại giao quốc tế, các phóng viên báo chí quốc tế đến gặp các nhà đấu tranh dân chủ, các chức sắc tôn giáo dám đấu tranh cho tự do tôn giáo, các dân oan nổi tiếng ([5])

II- Hiện tình người dân đòi công bằng xã hội và dân chủ nhân quyền

1) Giới dân oan đòi công bằng xã hội, đòi lại đất đai, nhà cửa bị tước đoạt cách bất công, bằng cách khiếu kiện, biểu tình. Từ ngày cướp được chính quyền tới nay, CSVN ngày càng gia tăng việc cướp đất đai nhà cửa của dân chúng, đặc biệt của những người dân thấp cổ bé miệng. Vì thế số người dân khiếu kiện đất đai và tham gia biểu tình đòi công lý ngày càng nhiều, họ liên kết lại thành “Hội dân oan”, và CSVN ngày càng gia tăng trấn áp đối với những dân oan này ([6]).

2) Giới công nhân đòi quyền lợi (đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc…) bằng cách đình công, lập công đoàn tự do ([7]): Giới công nhân bị giới chủ nhân ngoại quốc bóc lột sức lao động, trả lương thấp, ép làm việc quá giờ, đánh đập, nên họ phản đối bằng những cuộc đình công, lập công đoàn độc lập hay công đoàn tự do để bênh vực quyền lợi công nhân. Nhưng nhà nước CSVN, công an, công đoàn luôn luôn đứng về phía chủ nhân, tiếp tay với giới chủ nhân để đàn áp những cuộc đình công, bắt bỏ tù các chủ tịch công đoàn độc lập và những người lãnh đạo các cuộc đình công.

3) Giới trí thức, sinh viên học sinh đòi dân chủ bằng cách lập các trang blog, trang mạng và lên tiếng trên đó. Việc lập các trang blog đã trở thành một phong trào từ mấy năm nay: số trang blog đối kháng đã lên đến hàng ngàn. Ngoài ra, họ còn tham gia việc rải truyền đơn khắp nơi, tố cáo vụ tham nhũng (như vụ Vinashin, PMU 18…), chống lại việc bắt những người gây ý thức dân chủ trong giới sinh viên (như Gs Phạm Minh Hoàng…)

4) Giới tín đồ đòi tự do tôn giáo và tài sản Giáo hội bằng cách vừa tố cáo nhà cầm quyền đàn áp, bóc lột qua phương thức bất tuân dân sự, tập trung cầu nguyện, hỗ trợ bị cáo, lập trang mạng thông tin, vừa phê phán các lãnh đạo tôn giáo có tinh thần thỏa hiệp, các tổ chức tôn giáo quốc doanh, các lễ hội tôn giáo “tốt đời đẹp đạo”… Đặc biệt trong Giáo Hội Công giáo, chưa bao giờ giáo dân biểu lộ sự bất mãn cao độ như hiện nay đối với sự im lặng đồng lõa của một số vị lãnh đạo Giáo Hội trước những bất công và tội ác đang lan tràn do nhà CSVN gây ra, hay trước việc CSVN chiếm đất đai tài sản của Giáo Hội…

5) Giới dân chủ đối kháng đòi dân chủ nhân quyền bằng việc thành lập những tổ chức (nhóm, khối, đảng, liên minh), việc in ấn phát hành tạp chí, việc thiết lập trang mạng, việc lên tiếng trên các diễn đàn và đài phát thanh, việc rải truyền đơn, giăng biểu ngữ, việc biên soạn hiến pháp mới…

Hành động đối kháng khá nổi bật trong mấy năm qua là những vụ kiện của Ls Cù Huy Hà Vũ ([8]). Sốt dẻo nhất là hành động phản kháng của Lm Nguyễn Văn Lý làm đơn kiện CSVN ra Toà Án Quốc Tế (ngày 8/6/2010) về việc bắt giam giữ ông trái công luật quốc tế lần thứ 4 từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng, và lời kêu gọi toàn dân tiến hành giải thể chế độ Cộng sản và thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng (ngày 1/1/2011). Lời kêu gọi này được nhiều giới tại hải ngoại ủng hộ.

III- Hiện tình cuộc tranh đấu đòi sự toàn vẹn lãnh thổ

Khoảng 2 năm nay, cuộc đấu tranh trong nước lại mang thêm một mầu sắc mới được người dân trong nước và hải ngoại hưởng ứng mạnh mẽ là:

1) Cực lực phản đối nhà cầm quyền CSVN bán nước, dâng đất dâng biển của tổ quốc cho Trung cộng: đặc biệt vùng biên giới phía Bắc, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cùng một số vùng biển ở vịnh Bắc Bộ và dọc theo bờ biển Việt Nam (cách bờ 12 hải lý trở lên). Đồng thời phản đối CSVN tạo điều kiện cho Trung cộng âm thầm Hán hóa Việt Nam bằng việc cho Trung cộng đem hàng chục ngàn người giả dạng công nhân vào Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác bauxite; mở những đường hỏa xa từ Trung cộng vào Việt Nam; cho phép Trung Cộng tự do đưa dân của họ qua Việt Nam định cư, làm ăn không cần visa; cho Trung cộng thuê rừng dài hạn (50 năm) và được phép đưa người của họ đến những khu rừng ấy khai thác…

2) Phản đối âm mưu bành trướng của Trung cộng: công khai sáp nhập 2 quần đảo của Việt Nam vào huyện Tam Sa của họ, bắn giết ngư phủ Việt Nam đánh cá trong vùng biển của Việt Nam, chiếm biển Đông theo hình lưỡi bò (trong đó có phần biển của Việt Nam)…

Những hành động phản đối cụ thể là: biểu tình trước sứ quán Trung cộng tại Hà Nội, biểu tình chống rước đuốc Thế vận hội Bắc Kinh, viết 6 chữ HS-TS-VN khắp nước, viết bài phản đối trên các trang blog cá nhân, đặc biệt nhất là trang blog http://boxitvn.blogspot.com của GS Nguyễn Huệ Chi và Nhà giáo Phạm Toàn, Ls Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc ký quyết định cho phép Trung Quốc khai thác quặng bauxit ở Tây nguyên Việt Nam…

IV- Các nhân tố của cuộc đấu tranh

1) Tiền tuyến quốc nội: Cuộc đấu tranh trong nước hiện nay mang một số tính chất:

a- Quần chúng các giới đang âm ỉ sức mạnh phản kháng, nhưng thiếu người lãnh đạo. Hễ CSVN truy tìm ra được người nào lãnh đạo cuộc đấu tranh thì họ lập tức khủng bố và cô lập người ấy bằng cách này hay cách khác: tra vấn nhiều ngày, nặng hơn thì bỏ tù hoặc tệ nhất là thủ tiêu.

b- Lực lượng dân chủ đã đưa ra những nhận định và những đường lối đấu tranh đúng đắn, nhưng chưa vận động được quần chúng ([9]), vì CSVN tìm đủ mọi cách ngăn cản ([10]).

c- Giới lãnh đạo tinh thần là những người có nhiều khả năng vận dụng sức mạnh của quần chúng, nhưng họ đang là đối tượng tha hóa và biến chất của cộng sản.

Để có được điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh, quốc nội rất cần sự hỗ trợ về chính trị và tài chánh của hải ngoại và sự ủng hộ của quốc tế: Thiếu những hỗ trợ và ủng hộ này, cuộc đấu tranh trong quốc nội sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều

2) Hậu phương hải ngoại: cần vận động với quốc tế và hỗ trợ cho quốc nội. Muốn thế, cần đoàn kết để thành một lực lượng thống nhất, có thực lực để tiếng nói của Cộng đồng Người Việt Hải ngoại có thế giá và sức mạnh đối với chính giới các quốc gia.

3) Quốc tế: cần sử dụng ưu thế của mình (vốn là những nước viện trợ cho Việt Nam) để áp lực nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng nhân quyền, đồng thời hỗ trợ cho phong trào dân chủ Việt Nam.

Nguyễn Chính Kết

Little Saigon (California),
17/1/2011.



([1]) Tuy nhiên hiện nay, tham vọng bành trướng của Trung cộng khiến cho sự liên kết chặt chẽ với Trung cộng rõ ràng đem lại nhiều bất lợi cho Việt Nam mà đại họa lớn nhất là mất nước, là trở thành một tỉnh của Trung cộng, khiến CSVN phải bám vào Hoa Kỳ như một cái phao cấp cứu. Nhưng hiện nay CSVN đang bị xâu xé giữa hai khuynh hướng khó có thể dung hòa: “Đi với Tầu thì mất nước, mà đi với Mỹ thì mất đảng”, và giữa hai cách phản ứng của hai phe phái trong đảng: một phe chủ trương “thà mất đảng hơn mất nước” và một phe chủ trương “thà mất nước hơn mất đảng”. Hiện nay, chưa biết phe nào sẽ thắng thế.

([2]) a. Về Quy Chế: không công nhận tư cách pháp nhân của các tôn giáo, khiến các giáo hội không có quyền lợi và được tự do hoạt động như các tổ chức dân sự khác. Mọi hoạt động của các giáo hội đều phải xin phép nhà nước. Nhờ vậy, họ dễ dàng kiểm soát và can thiệp vào nội bộ các giáo hội. b. Về nhân sự : Kiểm soát việc huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm các chức sắc, nhất là chức sắc lớn. Kiểm soát chương trình đào tạo các tu sĩ hay chức sắc tôn giáo, buộc phải học chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử đảng CS, nền pháp chế XHCN do các cán bộ nhà nước dạy (PL điều 24.2). c. Về hoạt động: CSVN hạn chế các hoạt động thờ phượng, truyền giáo, giáo dục và xã hội. Việc tổ chức cuộc họp quan trọng của các vị lãnh đạo tôn giáo phải xin phép nhà nước và thường bị kiểm soát và khống chế chặt chẽ (Vụ tấn công buổi nhóm của các nhóm Tin lành ở HN tại Trung tâm Hội Nghị Quốc Gia tại Mỹ Đình, Hà Nội ngày 23.12.2010). d. Về tài sản: CSVN không cho các tôn giáo trực tiếp nhận hiến tặng đất đai; không trả những đất đai cơ sở đã lấy từ 1954 hay từ 1975; còn tiếp tục cướp thêm đất đai của các tôn giáo: Vụ Loan Lý, Bát Nhã, Cồn Dầu, Đồng Chiêm, Tam Tòa…mới đây là: Vụ đập nhà và cơ sở Giáo Hội Mennonite của MS Ng H Quang ngày 14/12/2010. e. Về quan hệ quốc tế: CS ngăn cản nhập cảnh những chức sắc tôn giáo ở hải ngoại từng lên tiếng phê phán chế độ, ngăn cản xuất cảnh những chức sắc có thái độ độc lập hay dám đương đầu với Nhà cầm quyền. Hoặc chấp nhận cho xuất cảnh nhưng sau đó không cho nhập cảnh trở lại.

([3]) Chẳng hạn vụ cướp đất nghĩa trang ở Cồn Dầu (Đà Nẵng) vào đầu năm 2010 (tấn công xe tang, cướp xác cụ bà Maria Hồ Nhu, bắt bớ và tra tấn nhiều giáo dân đưa tang, tra tấn đến chết anh Tôma Nguyễn Thành Năm), cướp trường học của giáo xứ Loan Lý (Huế) vào tháng 9-2009…

([4]) Chiều thứ Năm 30/12, ông Nguyễn Tấn Dũng vừa ký Công điện hỏa tốc số 2402/CĐ-TTg chỉ thị cho Bộ Công an "bảo vệ tuyệt đối an toàn" cho Đại hội Đại hội Đảng lần thứ XI sẽ được tổ chức từ 12/01 đến 19/01. NTD nhấn mạnh yêu cầu “phát hiện những cuộc đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch và phản động chống phá Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI… tập trung giải quyết hiệu quả các điểm nóng phức tạp về dân tộc, tôn giáo, khiếu kiện đông người... không để xảy ra các vấn đề phức tạp để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, kích động chống phá”.

Vì thế, công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã tung ra một lực lượng rất đông đảo để trấn áp phong trào dân chủ tại Huế, họ lo sợ các cuộc biểu tình áo trắng sẽ nổ ra theo lời kêu gọi của Lm Nguyễn Văn Lý. Vì thế, theo lời Lm Nguyễn Văn Lý, trong tuần lễ họp Đại Hội Đảng, nhà cầm quyền Huế cấm sinh viên học sinh mặc áo trắng quần trắng đi học, và công an được lệnh bắt những người mặc áo trắng ngoài đường.

Nhiều giáo dân Công giáo có liên hệ với hai linh mục Nguyễn Văn Lý và Phan Văn Lợi bị công an gọi đi thẩm vấn về mối liên hệ của họ với hai linh mục, hoặc với phong trào dân chủ.

([5]) Mới đây, ngày 5/1/2011, CSVN đã bạo hành và cưỡng bức ông Christian Marchant, Tùy viên chính trị của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, để buộc ông phải rời khỏi khu vực Tòa TGM Huế khi ông này đến thăm Lm Nguyễn Văn Lý. Ngày 7/1/2011, CSVN đã ngăn chặn Dân biểu Luke Simpkins và một tùy viên của tòa đại sứ Úc ngay tại phi trường Phú Bài, Thừa Thiên-Huế và canh chừng suốt thời gian hai ông ở Huế, không cho họ ghé thăm Lm Lý để tìm hiểu tình hình nhân quyền tại Việt Nam như đã dự định.

([6]) Cuộc biểu tình lớn nhất của dân oan tại Sàigòn lên đến hàng ngàn người vào tháng 10-2007 bị công an giải tán bằng bạo lực vào ban đêm. Các cuộc biểu tình tuần hành hàng trăm người vẫn thường xuyên diễn ra ở Hà Nội từ Vườn Hoa Mai Xuân Thưởng (Hà Nội), và tại Sàigòn quanh các trụ sở tiếp dân.

([7]) Theo số liệu từ bộ Lao động - thương binh và xã hội: Năm 2008, có khoảng 700 cuộc đình công. Nhờ đó, tình trạng bất công được cải thiện phần nào, và khả năng đàn áp đình công của CSVN trở nên tinh vi hơn, nên năm 2009, chỉ còn 216 cuộc đình công. Nhưng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010 đã có gần 200 cuộc đình công. Cũng theo Tổng LĐLĐVN, tháng 7-2010 có 28 cuộc đình công, tháng 8-2010 có 9 cuộc đình công…

([8]) Những vụ kiện của Ls Cù Huy Hà Vũ:

− Năm 2005, kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng dự án khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh, di tích văn hóa bất khả xâm phạm cần được bảo vệ. Ông thắng kiện.

− Năm 2009, kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc ký quyết định cho phép Trung Quốc khai thác quặng bauxit ở Tây nguyên Việt Nam.

− Năm 2010, tố cáo Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục An ninh Trung tướng Vũ Hải Triều về tuyên bố đã đánh sập 300 trang mạng.

− Yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp

([9]) Nhiều người nói: “Phong trào dân chủ không thiếu gì anh hùng, nhưng lại thiếu quần chúng”. Vì thế, để vận động quần chúng, Khối 8406 vừa đưa ra một Cẩm Nang Yêu Nước Tự Phát đề nghị những việc cụ thể mà người dân nào trong nước cũng có thể làm được để khích động lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm của người dân trước tình hình rất nguy hiểm hiện nay. Cẩm Nang này sẽ được phổ biến trên khắp lãnh thổ Việt Nam, từ Nam ra Bắc, từ thành thị đến nông thôn. Nội dung Cẩm Nang là lời kêu gọi từng người dân Việt Nam tự ý thực hiện một số hành động giản dị, dễ làm và không đến nỗi nguy hiểm để góp phần vào việc thay thế chế độ độc tài cộng sản phi nhân, chà đạp nhân quyền bằng chế độ dân chủ, nhân bản, coi trọng nhân quyền để cứu nguy Tổ Quốc. Để dễ nhớ, Cẩm Nang chỉ gồm 6 điều, mỗi điều chỉ là một câu ngắn bắt đầu bằng mẫu tự A, B, C, D, Đ và E, dễ dàng học thuộc lòng để có thể truyền miệng cho người khác. Làm vậy cũng tránh rủi ro bị an ninh cộng sản khám phá và truy tố với bằng cớ.

([10]) CSVN thành công trong việc cướp chính quyền chủ yếu nhờ tuyên truyền và vận động quần chúng. Vì thế, kinh nghiệm ấy khiến chúng quyết tâm ngăn cản bằng mọi giá không để cho các nhà đấu tranh dân chủ có thể tuyên truyền và vận động quần chúng.

Tình trạng đàn áp tôn giáo có hệ thống
tại Việt Nam hiện nay

Nguyễn Chính Kết
(với sự góp ý của Lm Phan Văn Lợi)

I. Căn bản việc vi phạm quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam

Chế độ Cộng sản là một chế độ:

– Muốn cai trị duy trì quyền lực vô thời hạn, không chấp nhận bị thay thế ([1]): Vì thế, họ kiểm soát chặt chẽ đời sống con người, muốn biến tất cả thành công cụ phục vụ cho chế độ, đồng thời tiêu diệt hoặc ngăn chặn tất cả những gì có hại cho sự tồn tại của chế độ ([2]).

– Coi tôn giáo là “thuốc phiện” mê hoặc dân chúng, cần phải tiêu diệt ([3]); nếu không tiêu diệt được thì ngăn chặn, hạn chế sự phát triển và sinh hoạt của tôn giáo ([4]).

II. Đàn áp tôn giáo bằng hệ thống “tam quyền phân công”

Để thực hiện chủ trương trên đối với tôn giáo, CSVN dùng cả một hệ thống đàn áp tôn giáo được phối hợp bởi các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Ba ngành này không phải là “tam quyền phân lập”, mà là “tam quyền phân công” dưới sự chỉ huy của Bộ Chính Trị.

1) Đàn áp tôn giáo bằng luật pháp

CSVN đã ra những bộ luật, những pháp lệnh, nghị định… để đặt mọi hoạt động tôn giáo dưới sự kiểm soát của chế độ, biến tất cả những sinh hoạt tôn giáo nào bất lợi cho chế độ trở thành bất hợp pháp hay phạm pháp (như gây rối trật tự an ninh công cộng, chống người thi hành công vụ, tuyên truyền chống phá nhà nước XHCNVN…), và biến mọi hành vi kiểm soát, đàn áp tôn giáo, chiếm đoạt đất đai, cơ sở, tài sản các tôn giáo của nhà nước trở thành hợp pháp.

Có hai văn bản pháp luật đặc biệt được dùng để thực hiện mục đích trên:

− “Pháp lệnh về tín ngưỡng, Tôn giáo” số 21/2004/QH11, do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội CSVN ban hành ngày 18-06-2004, và

− “Nghị định Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, Tôn giáo” số 22/2005/CP do Chính phủ ban hành ngày 01-03-2005.

Hai văn bản pháp luật mới đọc thì có vẻ như nhằm bảo vệ tôn giáo, nhưng trên thực tế nhằm kiểm soát và khống chế các tôn giáo trên 5 bình diện: quy chế, nhân sự, hoạt động, tài sản và quan hệ quốc tế.


2) Đàn áp tôn giáo bằng tư pháp

CSVN sử dụng tòa án làm công cụ để kết án là vi phạm pháp luật tất cả những ai đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo, chống lại việc nhà nước chiếm đoạt tài sản của giáo hội mình, dám sử dụng quyền tự do tôn giáo để sinh hoạt tôn giáo mà không xin phép nhà nước, hoặc dám chống lại những tội ác, những bất công, áp bức do CSVN gây ra. Tòa án chỉ là công cụ để hợp pháp hóa những bản án đã được bộ chính trị làm sẵn bằng những phiên tòa hoàn toàn mang tính hình thức.

Chẳng hạn ngày 27/03/2009 tòa án nhân dân Hà Nội đã xử phúc thẩm xử 8 giáo dân Thái Hà với tội danh “hủy hoại tài sản XHCNVN và gây rối trật tự công cộng” chỉ vì họ đòi lại đất đai của giáo xứ bị nhà nước chiếm để giao cho tư nhân sử dụng. Hoặc tòa án Đà Nẵng đã xử 6 giáo dân Cồn Dầu với tội danh “xách động dân chúng, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự” chỉ vì họ chống lại việc nhà nước chiếm nghĩa trang của giáo xứ họ… trong khi công an tại đây đã tra tấn làm chết một giáo dân Cồn Dầu thì lại hoàn toàn vô can.

3) Đàn áp tôn giáo bằng hành pháp

Cơ quan hành pháp hay nhà nước CSVN chỉ là công cụ đảng Cộng sản dùng để duy trì quyền lực, bảo vệ và thực thi chế độ độc tài toàn trị, sẵn sàng đàn áp, bắt bớ, tiêu diệt bất kỳ cá nhân hay tập thể nào bất lợi cho chế độ. Nó cũng là công cụ để cướp bóc, tước đoạt đất đai, nhà cửa, tài sản của nhân dân, của các tôn giáo (dựa trên những bộ luật có đặc tính hợp pháp hóa những hành động đàn áp, cướp bóc của chế độ, chẳng hạn luật đất đai quy định chỉ nhà nước có quyền sở hữu mọi đất đai, còn nhân dân chỉ có quyền sử dụng).

III. Đàn áp tôn giáo trên nhiều mặt

Có 5 yếu tố cấu thành sinh hoạt Tôn giáo: quy chế, nhân sự, hoạt động, tài sản và quan hệ quốc tế. CSVN đã sử dụng hệ thống đàn áp trên để kiểm soát và khống chế các tôn giáo trên những yếu tố này.

a. Về quy chế :

Các tôn giáo không được công nhận có tư cách pháp nhân ([5]). Vì thế các tôn giáo không có quyền lợi và được tự do hoạt động như các tổ chức dân sự khác. Muốn hoạt động, các tôn giáo phải được nhà nước cho phép chứ không phải đương nhiên được hoạt động như những tổ chức có pháp nhân. Nhờ đó, nhà nước dễ dàng kiểm soát và can thiệp vào tổ chức và hoạt động của các tôn giáo. Những tôn giáo nào muốn thoát khỏi sự kiểm soát và can thiệp này đều bị ngăn cấm hoạt động.

b. Về nhân sự :

Kiểm soát việc huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm các chức sắc, nhất là chức sắc lớn. Mọi tín đồ muốn trở thành tu sĩ hay chức sắc đều phải ghi danh tại UBND cấp xã (PL điều 21.2). Việc tuyển chọn, đào tạo, phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển các chức sắc tôn giáo đều phải xin phép nhà nước, có được nhà nước chấp nhận thì mới được thi hành ([6]). Ứng viên vào các chức vụ cao cấp trong các tôn giáo phải được nhà nước cấp trung ương xét duyệt và chấp nhận thuận thì tôn giáo mới được phong chức cho họ ([7]).

Chương trình đào tạo các tu sĩ hay chức sắc tôn giáo phải được nhà nước xét duyệt, và phải có những môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử đảng CS, nền pháp chế XHCN do các cán bộ nhà nước dạy (PL điều 24.2) ([8]).

Không cho các giáo dân giữ các chức vụ cao trong bộ máy công quyền, công an, quân đội, giáo dục...

c. Về hoạt động:

CSVN hạn chế các hoạt động thờ phượng, truyền giáo, giáo dục và xã hội.

Hoạt động thờ phượng của các Tôn giáo chỉ được phép thực hiện ở những nơi đã được Nhà cầm quyền cho phép như chùa, thánh đường, thánh thất, tu viện… Nhưng việc xin phép xây cất hoặc sửa chữa những nơi thờ phượng này thường gặp rất nhiều khó khăn, nhiều trường hợp không được chấp nhận vì những lý do rất phi lý. Điều này đặc biệt gây khó khăn rất nhiều cho các nhóm tôn giáo − ngay từ trong giáo thuyết − chủ trương sinh hoạt thờ phượng tại tư gia ([9]). Những nơi được chính thức cho phép sinh hoạt thường không dám công khai cầu nguyện cho những cá nhân hoặc tập thể bị nhà cầm quyền sát hại hay đàn áp cách bất công…

Ngoài sinh hoạt thờ phượng, dạy giáo lý, đào tạo chức sắc, những sinh hoạt tôn giáo khác như truyền giáo, mở trường giáo dục, mở bệnh viện, làm công tác từ thiện xã hội (như cứu trợ thiên tai) vẫn bị hạn chế ([10]). Các tôn giáo chỉ được quyền mở các trường mẫu giáo, không được thành lập trường tiểu học, trung học, đại học (như trước năm 1975 tại miền Nam). Hàng ngàn cơ sở thuộc các loại sinh hoạt bị hạn chế ấy đã bị Nhà cầm quyền tịch thu hàng chục năm nay, rất ít cơ sở được hoàn trả lại.

Nói chung, các tôn giáo không có nhà xuất bản riêng, báo chí riêng, đài phát thanh truyền hình riêng, cũng không có giờ phát thanh, phát hình trên đài của Nhà nước (vốn do tiền dân đóng thuế mà có). Trang mạng của các tín hữu, tu viện, dòng tu nào dám thông tin hoặc phê bình về những sai trái hay tội ác của chế độ, dám bênh vực công lý thì thường xuyên bị phá hoại ([11]).

Việc tổ chức cuộc họp quan trọng của các vị lãnh đạo tôn giáo phải xin phép nhà nước và thường bị kiểm soát và khống chế chặt chẽ ([12]).

d. Về tài sản :

CSVN không cho các tôn giáo trực tiếp nhận hiến tặng đất đai; không trả những đất đai cơ sở đã lấy từ 1954 hay từ 1975; còn tiếp tục cướp thêm đất đai

Tài sản của các Tôn giáo đều bị Nhà nước hoặc bảo hộ (các nơi thờ phượng), hoặc tịch thu hoàn toàn (cơ sở giáo dục, từ thiện, truyền giáo), hoặc tuyệt đối tước quyền sở hữu, chỉ cho quyền sử dụng một phần nào đó (đất đai đủ loại). Cũng có một số Nhà thờ (nơi không còn hay còn ít giáo dân) bị chiếm đoạt và rất nhiều ruộng đất (nguồn nuôi sống) bị tịch thu hẳn. Mấy năm gần đây, qua chủ trương làm Sổ đỏ để để xác nhận quyền sử dụng đất, Nhà cầm quyền đã yêu cầu các cơ sở tôn giáo chỉ khai báo số đất đang sử dụng chứ không được phép khai tổng số đất mà mình đã có quyền sở hữu từ trước năm 1975.

Nhà cầm quyền CSVN thi hành các việc vừa nói dựa trên nguyên tắc “Nhà nước quản lý đất đai” và “độc quyền giáo dục” được quy định trong Hiến pháp 1992 (điều 17-18), Luật đất đai 2003 (điều 5), Nghị quyết số 23 của Quốc hội (26-11-2003) và gần đây nhất là Chỉ thị 1940 về đất đai tôn giáo (31-12-2008). Theo chỉ thị này thì những đất đai nào mà Nhà cầm quyền đã mượn hay tịch thu của các Tôn giáo sẽ không bao giờ được trả lại ([13]).

e. Về quan hệ quốc tế :

Điều 35 trong Pháp lệnh Tôn giáo Tín ngưỡng quy định: “Khi tiến hành các hoạt động quan hệ quốc tế sau đây phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý Nhà nước về Tôn giáo ở trung ương: 1. Mời tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ trương của Tổ chức Tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam; 2. Tham gia hoạt động Tôn giáo, cử người tham gia khóa đào tạo về Tôn giáo ở nước ngoài”.

CSVN đã sử dụng điều luật này để ngăn cản nhập cảnh những chức sắc tôn giáo từng lên tiếng phê phán chế độ ([14]). Họ cũng dùng điều luật này để ngăn cản xuất cảnh những chức sắc có thái độ độc lập hay dám đương đầu với Nhà cầm quyền ([15]). Hoặc chấp nhận cho xuất cảnh nhưng sau đó không cho nhập cảnh trở lại ([16]).

CSVN sẵn sàng can thiệp trắng trợn vào mối quan hệ quốc tế của các Tôn giáo. Chẳng hạn ngày 13-17/5/2008, CSVN đã đứng ra điều hành và chi phối đại lễ Phật giáo Liên hiệp quốc Vesak 2008 tại Hà Nội và đã sử dụng Giáo hội Phật giáo Việt Nam như một Giáo hội quốc doanh và loại trừ Giáo hội Phật giáo Thống nhất là Tôn giáo chính truyền. Với Giáo Hội Công giáo, từ năm 1989 đến nay, Tòa Thánh đã phải 16 lần cử phái đoàn đến Việt Nam để thảo luận vấn đề bổ nhiệm Giám mục, thiết lập Giáo phận, thiết lập chủng viện, bang giao song phương và nhiều vấn đề khác, nhiều lần không thành công.

IV- Lường gạt quốc tế, tung hỏa mù về tự do tôn giáo:

Một đằng CSVN đàn áp thẳng tay các tôn giáo hay những chức sắc tôn giáo nào dám nói sự thật về chế độ, dám lên tiếng chống điều ác, chống bất công, đòi công lý. Một đằng họ dung dưỡng và tạo điều kiện dễ dàng cho những giáo hội, giáo phái hay chức sắc nào chấp nhận thỏa hiệp, cộng tác với chế độ, và im lặng trước những điều ác hay bất công do chế độ gây ra. Đằng khác, để đối phó với áp lực quốc tế đòi CSVN tôn trọng tự do tôn giáo, CSVN tìm đủ mọi cách lường gạt quốc tế, tung hỏa mù về tự do tôn giáo để quốc tế tưởng rằng CSVN có những tiến bộ về tự do tôn giáo nên không dùng những biện pháp chế tài đối với họ. Việc lừa gạt quốc tế này − được các chức sắc chấp nhận thỏa hiệp tiếp tay − được thực hiện như sau:

a- Cho các chức sắc nào không nguy hiểm cho chế độ được xuất ngoại hay nhập nội ([17]). Khi xuất ngoại, các chức sắc này có nhiệm vụ giải độc cho chế độ về tình trạng đàn áp tôn giáo tại Việt Nam bằng cách này hay cách khác.

b- Cho các giáo hội hay các chức sắc có tinh thần thỏa hiệp được xây dựng các cơ sở tôn giáo hoành tráng ([18]).

c- Cho tổ chức các lễ hội linh đình (nhưng chỉ cho các tôn giáo hay chức sắc tôn giáo ngoan ngoãn được tổ chức, và lễ hội đó có lợi cho nhà cầm quyền về mặt uy tín, kinh tế...), biến chất các tôn giáo để chỉ còn là những “tôn giáo lễ hội” ([19]), và các chức sắc chỉ còn đơn giản là những “thầy cúng”, “thầy giảng”, chứ không còn là những tu sĩ, hòa thượng, giám mục, thượng tọa, linh mục, mục sư đúng nghĩa nữa.

d- Cho ấn hành những sách, báo tôn giáo nào không động tới vấn đề chính trị, không động đến sự cai trị của CS, không vạch trần sai lầm, tố cáo tội ác của CS, không đả động đến các bất công xã hội đang lan tràn khắp nơi ([20]).

e- Cho được bổ nhiệm những chức sắc cao cấp (để điều hành các GH) mà CS có thể sai khiến và bảo đảm được lòng trung thành ([21]).



([1]) Để có thể cai trị và cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân hết thế hệ này sang thế hệ khác, hầu làm giàu trên xương máu và mồ hôi nước mắt của nhân dân

([2]) Bất chấp phải dùng đến những phương tiện vi hiến, phạm pháp, tàn bạo, dối trá, phi nhân

([3]) Vì tôn giáo là một tiềm lực rất mạnh chủ trương khuyến thiện chống ác, là điều rất bất lợi cho những thế lực gây tội ác như chế độ Cộng sản

([4]) Nhất là tìm cách biến chất tôn giáo để tôn giáo thật sự trở thành “thuốc phiện” làm tê liệt sự phản kháng hay đấu tranh của quần chúng, hoặc biến tôn giáo thành công cụ có lợi cho chế độ

([5]) Dù có đủ điều kiện để có tư cách pháp nhân theo Điều 110 của Bộ luật Dân sự của Việt Nam

([6]) Chẳng hạn đối với Công giáo, việc tuyển chọn các ứng viên làm linh mục, việc bổ nhiệm hoặc thuyên chuyển các linh mục phải được các UBND từ cấp tỉnh trở xuống xét duyệt. Nhiều người bị từ chối, bị cầm chức hoặc không được phép thuyên chuyển nhiều năm. Để được chấp nhận cho chịu chức, nhiều người phải lo lót vàng bạc, hoặc cam kết sẽ thường xuyên làm báo cáo mật cho công an. Các chức vụ và nhiệm sở quan trọng (như Tổng đại diện giáo phận, Giám đốc của các cơ sở như Chủng viện, Trung tâm Mục vụ, Giáo xứ Chánh tòa, Trung tâm Hành hương, Linh địa Đền thánh…) phải là những chức sắc “dễ bảo”, "thuận lợi cho chế độ" hoặc ít nhất không có “tiền sự đấu tranh, chống đối”. Những vị nào từng lên tiếng cho nhân quyền, công lý, hoặc chống bất công, tham nhũng… đều gặp nhiều rắc rối trong các sinh hoạt tôn giáo, nhất là trong chuyện xuất ngoại. Chính sách này tạo điều kiện rất thuận lợi cho CSVN cài người của họ vào hàng ngũ lãnh đạo của các tôn giáo để lũng đoạn, biến chất các tôn giáo.

([7]) Các ứng viên giám mục phải được Nhà cầm quyền trung ương chấp thuận dựa trên hai bản danh sách gồm nhiều ứng viên: một bản do Hội đồng Giám mục trình lên cả Tòa thánh lẫn nhà nước CSVN, và một bản do Tòa thánh trình cho nhà nước CSVN sau khi đã xét duyệt danh sách trước. Nhiều ứng viên Giám mục được Nhà cầm quyền chọn còn phải cam kết một số điều với họ. Sự can thiệp này chắc chắn khiến cho phẩm chất của những vị lãnh đạo Giáo Hội Việt Nam hiện nay ở mọi cấp không hoàn toàn được như Tòa thánh và Dân Chúa mong đợi. Chẳng hạn các ngài sẵn sàng im lặng và thụ động trước những tội ác, bất công đầy dẫy trong xã hội mà đúng ra lương tâm buộc các ngài phải lên tiếng một cách ôn hòa. Thậm chí không dám phê phán, dù chỉ rất nhẹ nhàng, các thảm trạng và tệ nạn xã hội gây nhức nhối như nạn trục giết các thai nhi lên đến hai triệu em mỗi năm, nạn buôn bán hàng trăm ngàn phụ nữ ra nước ngoài... Hoặc trước việc nhà nước ngang nhiên chiếm đoạt cơ sở đất đai của Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội năm 2008, thô bạo triệt hạ Thánh tượng Đức Mẹ ở Giáo họ Bàu Sen, Quảng Bình năm 2009, cho nổ mìn triệt hạ Thánh Giá Chúa Kitô ở Giáo xứ Đồng Chiêm, Hà Nội năm 2010; đánh đập dã man Giáo dân và Linh mục tại Giáo xứ Tam Tòa, Quảng Bình năm 2009, hành hung Tu sĩ và Giáo dân tại Đồng Chiêm đầu năm 2010, bắn giết bừa bãi dân oan vô tội như ở Tĩnh Hải, Thanh Hóa và tại Giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng thời gian gần đây….

([8]) Đây cũng là cách để các cán bộ nhà nước tiếp xúc với các chức sắc tương lai để theo dõi tư tưởng, khuynh hướng chính trị của họ hầu biết cách đối phó với họ khi họ đã được phong chức và bổ nhiệm, hoặc

([9]) Chẳng hạn các giáo phái Tin Lành tư gia chủ trương thờ phượng Thiên Chúa theo từng nhóm nhỏ tại tư gia tương tự như Giáo Hội thời sơ khai. Nhiều buổi thờ phượng tại tư gia của các giáo phái này đã bị công an quấy phá và những người tham dự thờ phượng bị mời thẩm vấn, đe dọa, hành hung, hoặc bị ép bỏ đạo.

([10]) Sự hạn chế việc cứu trợ này dựa trên điều 5 của Nghị định 64/2008/NĐ-CP ban hành ngày 14-05-2008, quy định: “Ngoài các tổ chức, đơn vị (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ trung ương và địa phương), không một tổ chức, đơn vị, cá nhân nào được quyền tổ chức tiếp nhận tiền, hàng cứu trợ”.

([11]) Chẳng hạn trang mạng của Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, trang Nữ Vương Công Lý…

([12]) Chẳng hạn các cuộc họp thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam vẫn bị Nhà cầm quyền kiểm soát, khống chế từ chương trình, nội dung đến thông báo hay thư mục vụ. Suốt 35 năm sau biến cố 1975, nghĩa là đến năm 2010, HĐGM Việt Nam mới dám thành lập Ủy ban Công lý Hòa bình để nghiên cứu, ra chỉ thị, hướng dẫn về những vấn đề nhân phẩm, nhân quyền, xã hội, chính trị vốn đầy dẫy những điều bất thường tại Việt Nam, trong khi HĐGM ở các nước khác, dù nhỏ hơn, đều đã có Uỷ ban này từ rất lâu.

([13]) Sở dĩ có Chỉ thị 140 này là vì mấy năm gần đây, các tôn giáo đứng lên đòi lại các đất đai và cơ sở đã bị Nhà cầm quyền tịch thu cách bất công và sử dụng không đúng mục đích (biến thành nơi kinh doanh hay chia chác nhau giữa các đảng viên cán bộ). Nổi cộm gần đây là vụ tòa Khâm sứ, Linh địa Thánh mẫu Giáo xứ Thái Hà, nghĩa trang giáo xứ Đồng Chiêm (Hà Nội), Nhà thờ giáo xứ Tam Tòa (Vinh), dòng Nữ tu Phaolô (Vĩnh Long), trường học của giáo xứ Loan Lý (Huế) và giáo xứ An Hải (Đà Nẵng), đất ở của người sống và đất chôn của người chết tại giáo xứ Cồn Dầu (Đà Nẵng)... Cuộc đấu tranh này của các Tôn giáo động tới một nguyên tắc nền tảng của chế độ CS và một phương tiện sống còn của đảng CS, đó là quyền công hữu (thực tế là quyền đảng hữu) mà đúng ra phải là quyền tư hữu về đất đai. Như vậy, đây không phải là tranh chấp đất đai giữa Nhà nước và Giáo hội, mà là tranh chấp giữa bạo quyền độc tài toàn trị (muốn thâu tóm mọi đất đai và tài nguyên đất nước vào tay mình) và sức mạnh của lương tri (quyết tâm bảo vệ công lý, sự thật, nhân quyền, dân chủ). Tranh chấp này hoàn toàn mang tính chính trị, liên hệ sâu xa tới công lý, nhân phẩm chứ không mang tính dân sự hay hình sự.

([14]) Chẳng hạn trường hợp Lm Trần Công Nghị (thuộc TGP Los Angeles, Hoa Kỳ) năm 2006 hay Lm Trần Xuân Tâm (TGP Washington) năm 2010 khi đến phi trường Tân Sơn Nhất liền bị trục xuất. Hay như trường hợp Đức Ông Đào Đức Điềm, tháng 01-2003, từ Anh quốc được nhập cảnh nhưng sau đó bị thủ tiêu tại Huế.

([15]) Như trường hợp Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền trước đây và Linh mục Nguyễn Văn Lý hiện thời

([16]) như trường hợp hai chủng sinh Nguyễn Văn Chiến và Đặng Quang Tiến (vốn là linh mục “chui” gốc giáo phận Bùi Chu đã được Giám mục Phạm Văn Lộc [giáo phận Kontum] truyền chức năm 1997), nhà nước cho phép đi du học năm 2000, nhưng sau đó không cho về nước nữa (Lm Chiến hiện đang ở Hoa Kỳ và Lm Tiến đang ở Na Uy).

([17]) Những vị được cho xuất ngoại hầu hết đều không nói gì bất lợi cho cộng sản, không dám nói sự thật về chế độ, hoặc tích cực hơn là nói những điều không có thực nhưng có lợi cho chế độ.

([18]) Chẳng hạn nhà thờ Vườn Xoài do Lm Phan Khắc Từ cai quản.

([19]) Từ ngữ mà Lm Nguyễn Ngọc Tỉnh dùng.

([20]) Chẳng hạn Kinh Thánh, các loại kinh điển, lịch của các tôn giáo…

([21]) Còn những vị có tinh thần độc lập hay đấu tranh thì sách nhiễu hay loại bỏ: như ĐC Kiệt và ĐC Oanh chẳng hạn.