Minh xác quan điểm và lập trường

Nguyễn Chính Kết

Như những bản tin đã loan trên các phương tiện truyền thông hiện đại, nhà cầm quyền Việt Nam, trong hai tháng qua (2&3/2007), đã:

– tỏ ra quyết tâm tiêu diệt các phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ trong nước,

– thẳng tay đàn áp các nhà tranh đấu trong nước,

– dùng những phương pháp hạ tiện để ép buộc các nhà tranh đấu cam kết từ bỏ cuộc đấu tranh của mình,

– dùng luật pháp vi hiến và tòa án bất minh làm công cụ đàn áp và kết án tù những người vì lương tâm dám nói lên sự thật về tình trạng phi dân chủ và phi nhân quyền của chế độ.


Trước những hành động phi nhân, phi nghĩa trên của nhà cầm quyền CSVN, cá nhân tôi, Nguyễn Chính Kết, xin minh xác quan điểm và lập trường của tôi như sau:

1/ Tôi cực lực tố cáo trước đồng bào trong, ngoài nước và công luận quốc tế về bản án bất công, phi pháp mà đảng và nhà nước CSVN đã dùng luật rừng áp đặt lên linh mục Nguyễn Văn Lý và bốn chiến sĩ dân chủ trong phiên tòa vội vã ngày 30/3/2007 tại Huế. Đúng như nhận định của luật sư Trần Thanh Hiệp: Đây quả là một vụ án xử người vô tội. Tôi rất mong mọi người yêu dân chủ và nhân quyền đồng loạt lên án phiên tòa này hầu điều tệ hại này sẽ không xảy ra với hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân đang bị CSVN giam giữ một cách trái với công pháp quốc tế và đạo lý con người.

2/ Tôi rất cảm thông trường hợp hai người bạn đấu tranh của tôi là anh Đỗ Nam Hải và anh Nguyễn Phong – hai thành viên cùng trong Ban Điều Hành Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam 2006 với tôi – đã bị chế độ độc tài CSVN dùng áp lực và tình cảm gia đình để cưỡng chế buộc cam kết những điều hoàn toàn trái ngược với ý muốn của mình. Những điều cam kết trong điều kiện bị cưỡng chế như thế đều vô giá trị đối với những ai còn lương tri. Những lời lẽ kiên cường, bất khuất của anh Đỗ Nam Hải trước công an CSVN tại Sàigòn ngày 26/3/2007 khi vì chữ hiếu mà phải cam kết những điều ngược ý mình, và của anh Nguyễn Phong trước tòa án bất minh tại Huế ngày 30/3/2007 cùng với những lá thư viết cùng ngày (30/3) phủ nhận giá trị những gì anh đã cam kết khi bị cưỡng chế, là bằng chứng cho thấy lòng dũng cảm cũng như lập trường bất di dịch của hai anh đối với cuộc đấu tranh chung.

Do đó, cá nhân tôi vẫn luôn tin tưởng ý chí đấu tranh kiên cường của hai anh đồng thời khuyến khích hai anh hãy tiếp tục dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ. Thiết tưởng trong cuộc đấu tranh với bạo quyền CSVN đầy mưu mô, xảo quyệt, độc ác, lại nắm trong tay đầy đủ phương tiện đàn áp với cả bộ máy công an, quân đội, súng ống cùng với tiền rừng bạc bể thu được từ nhân dân cả nước, thì việc dùng mưu trí để quyết định lúc tiến lúc thoái hầu bảo toàn lực lượng nhằm ích lợi lâu dài cho đại cuộc là chuyện có thể hiểu và chấp nhận được. Vì ngoài đức tính can đảm và bất khuất, người tranh đấu cũng còn phải sử dụng mưu trí nữa. Quả thật khó mà xác định ranh giới giữa khôn ngoan và hèn nhát, giữa can đảm và ngu xuẩn: khôn ngoan quá có khi biến thành hèn nhát, can đảm quá có lúc biến thành ngu xuẩn
.

Hai câu chuyện sau đây phần nào nói lên sự cần thiết phải mềm dẻo khi ứng xử:

– Khổng Tử nói với đệ tử: "Cái nhân của Nhan Hồi hơn ta. Cái Dũng của Tử Lộ hơn ta. Cái trí của Tử Cống hơn ta". Đệ tử hỏi: "Thế sao những người này còn theo học với Thầy?" Khổng Tử đáp: "Nhan Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc cần bất nhân. Tử Lộ chỉ biết dũng mà không biết khi nào cần bất dũng, Tử Cống chỉ biết mưu trí mà không biết lúc nào cần tỏ ra bất trí. Cái hay của những người ấy mà đổi lấy cái ta có, ta không đổi. Bởi vậy, họ mới phải tôn ta làm thầy".

– Chuyện Hàn Tín phải hành động tương tự như một kẻ hèn nhát khi luồn trôn giữa chợ, bất chấp sự chê cười của thế nhân, để mưu tính đại sự về sau, đã được nhiều người đời sau thông cảm.

Đưa ra hai câu chuyện trên tôi không hề có ý tán đồng hay ủng hộ cách hành xử của hai anh. Tôi chỉ muốn kết luận rằng chúng ta chưa nên vội vàng xét đoán theo hướng tiêu cực về cách hành xử của hai nhà đấu tranh trên. Tốt nhất chúng ta nên kiên nhẫn chờ thời gian trả lời.

Nhân đây, với tư cách một người đấu tranh cho quyền làm người Việt Nam, tôi xin tái minh xác:

1/ Khi tự ý đi ra nước ngoài vào tháng 12 năm 2006 với hộ chiếu và chiếu khán hợp pháp, tôi nhân danh quyền tự do đi lại của người công dân để thực thi quyền thứ hai là tự do nói lên tiếng nói của tôi và tiếng nói của những người "không có tiếng nói" trên quê hương tôi. Vì thế tôi coi lệnh truy nã mà chế độ độc tài CSVN đã gửi đến cho gia đình tôi ở trong nước ngày 8/3/2007 để hù dọa vợ con tôi là vi phạm hiến pháp Việt Nam và công ước quốc tế, nên tôi coi như vô giá trị.

2/ Sau khi làm xong nhiệm vụ ở nước ngoài, tôi sẽ hồi hương để tiếp tục sát cánh cùng đồng bào tôi trong cuộc đấu tranh bất bạo động cho một nước Việt Nam thực sự tự do dân chủ, dù có phải gánh chịu những đòn thù đê tiện của chế độ bạo tàn cộng sản.

San Jose, ngày 31 tháng 03 năm 2006.

Ký tên

Nguyễn Chính Kết




________________________________________________________________________