“Không ưa thì dưa có giòi”
Nguyễn Chính Kết
“Không ưa thì dưa có giòi”, “Muốn giết chó thì
bảo là chó dại”, “Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra”,
v.v... Đó là những câu nói kết tinh biết bao kinh nghiệm của cổ nhân ta xưa về
tâm lý con người, về nhân tình thế thái. Khi người ta không ưa ai, có ác cảm
với ai, nhất là ghét hay có xung đột quyền lợi hoặc ảnh hưởng với ai, người ta
rất dễ nói xấu, cắt nghĩa xấu, dựng chuyện xấu, vu oan giá hoạ cho người ấy để
mọi người cùng ghét người ấy với mình, hoặc để ggây chuyện với người ấy. Điều
đó chẳng những đúng trong những chuyện đời thường, mà còn đúng trong nhiều lãnh
vực khác, nhất là trong lãnh vực chính trị.
Trong cuốn
“tam thập lục kế” bàn về những mưu kế chính trị, có những kế như “Tá đao sát
nhân” (Mượn dao giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù), “Sấn hỏa đả
kiếp” (Tranh thủ nhà cháy mà đánh cướp, lợi dụng lửa để hành động), “Vô trung
sinh hữu” (Không có mà làm thành có, dựng
chuyện lên để vu khống), “Tiếu lý tàng đao” (Cười nụ giấu dao, khẩu Phật
tâm xà), “Chi tang mạ hòe” (Chỉ cây dâu để mắng cây hòe, chỉ chó mắng mèo), “Di
thể giá họa” (chuyển xác người đến nhà người khác để vu tội giết người cho họ),
v.v... là những kế mà các nhà chính trị bá đạo thường sử dụng để nói xấu hoặc
vu oan giá họa cho những người mình ghét hay không ưa.
Sư phụ của
tất cả những người chuyên đặt điều nói xấu, vu oan giá họa cho đối thủ chính là
những ông tổ cộng sản như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh cũng như
các cán bộ cộng sản là những người học đòi gương gian ác của họ... Tuy nhiên,
trong đời thường, trong thương trường cũng như trong mọi cuộc tranh chấp, đấu
tranh, kể cả trong hàng ngũ đấu tranh dân chủ, vẫn luôn luôn có những người áp
dụng những chiêu thức bá đạo này để hạ bệ hay đánh phá những người mình không
ưa, mình ganh tị hay đang là đối thủ của mình. Chúng ta có thể thấy rõ điều này
trong những cuộc tranh cử các cấp chính quyền. Điều này cũng xảy ra trong cộng
đồng người Việt nhất là khi có người được cộng sản cài vào trong hàng ngũ đấu
tranh dân chủ, hoặc bị chúng mua chuộc để hoạt động cho chúng.
Thiết
tưởng trong mục đích “khai dân trí”, là một trong 3 yếu tố cần thiết để thực
thi dân chủ mà cụ Phan Chu Trinh đã nêu ra (“Chấn dân khí, khai dân trí và
hậu dân sinh”), chúng ta cần tìm hiểu về
tâm lý này của con người, nhất là trong lãnh
vực chính trị, để người dân chúng ta nhận định sáng suốt hơn, trước
những lời vu khống, dựng chuyện, đặt điều, xuyên tạc của những người có ác ý,
của những nhà chính trị bá đạo lẫn những tên cộng sản nằm vùng trong hàng ngũ
đấu tranh dân chủ. Tin vào những thông tin tuyên truyền dối trá và hành động
theo những thông tin sai lạc ấy là vô tình tiếp tay cho người ác và hại người
ngay chính.
“Không ưa thì dưa có giòi”. Như vậy, sở dĩ có chuyện
“dưa có giòi” tức đặt điều dựng chuyện là do tình trạng “không ưa” nhau. Do đó,
trước hết, ta cần tìm hiểu xem những lý do gì khiến người ta “không ưa” nhau.
Trong câu
chuyện thường ngày của dân gian, người ta vẫn thường trưng dẫn nhiều câu của cổ
nhân: “Con gà ganh ghét nhau tiếng gáy”, “con chó cạnh tranh tiếng sủa”, “hai
ca sĩ có bao giờ ưa nhau?”. Quả thật, tính đố kỵ của con người là chuyện rất
thường tình mà ai cũng dễ dàng cảm nghiệm được không nhiều thí ít ngay trong
tâm lý của chính bản thân mình, cũng như nơi người đời. Hai người thân nhau
cùng đi với nhau, nhưng một người luôn luôn được mọi người khen là giỏi, là
đẹp, là hay, còn người kia thì không hề được ai khen thì đâm ra buồn, tự nhiên
nảy sinh tâm tình ganh tị. Ngay cả anh chị em ruột thịt với nhau, có ai đó bỗng
nhiên giàu có hẳn lên, hoặc thành công vượt bực, hoặc được cất nhắc lên những
địa vị cao trọng, thì những người khác tự nhiên phát sinh hai tâm tình trái
ngược nhau. Một đằng vui mừng cho người thân của mình được may mắn, nhưng đằng
khác buồn bã cho bản thân mình không được như vậy. Người vị tha thì tâm tình
trước nhiều hơn tâm tình sau, còn người ích kỷ thì tâm tình sau vượt trội hơn
tâm tình trước. Đối với người kém cao thượng thì từ hai tâm tình ấy thường phát
sinh một tâm tình thứ ba là đố kỵ, ghen ghét hay ganh tị… Từ chuyện ghen ghét
này mới phát sinh chuyện hại nhau, nói xấu nhau, vu oan giá họa cho nhau, thậm
chí giết nhau, làm cho nhau khổ đến tận cùng. Lúc đó người ta áp dụng câu “muốn
giết chó thì bảo là chó dại”
Truyện “Tấm
Cám” về mẹ con cô Cám tìm cách hại cô Tấm, truyện “Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn”
nói về mụ phù thủy hoàng hậu tìm cách hại công chúa Bạch Tuyết… đều nói lên
thực trạng tâm lý ấy.
Trong lãnh
vực chính trị, đấu tranh, ngay cả trong lãnh vực tôn giáo, tâm linh, cũng phát
sinh những tâm lý đố kỵ ganh ghét như thế. Khi đã có chuyện không ưa nhau, ghét
nhau, thì chuyện cắt nghĩa xấu, xuyên tạc, dựng chuyện rất dễ xảy ra. Vấn đề
của chúng ta là làm sao phân biệt được đâu là những lời vu khống do động lực đố
kỵ, và đâu là những sự kiện có thật?
Dưới đây
là một vài đề nghị:
1) Dùng lý luận để phân định:
Có những
chuyện vừa nghe qua, nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ, chúng ta có thể nhận ra
ngay hầu chắc đó là chuyện bịa đặt. Chẳng hạn, chuyện mẹ của Tăng Sâm nghe
người chung quanh đồn con mình giết người. Bà không tin vì bà từng thấy con
mình rất đạo đức: một việc xấu nhỏ mà có lợi thật nhiều cho mình, Tăng Sâm cũng
không chịu làm, lẽ nào lại làm một tội ác tày trời như thế? Một người bị đồn là
quỵt một món tiền nhỏ của ai đó, nhưng trong quá khứ ta thấy người này luôn
luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác một
cách quảng đại, không tiếc tiền, thì ta biết lời đồn đãi ấy không đáng tin. Lời
đồn ấy có thể xuất phát từ một kẻ không ưa hay ghen ghét người ấy. Tuy nhiên,
mẹ của Tăng Sâm đã bị lung lạc niềm tin vào con mình khi thấy có nhiều người
phao tin ấy. Điều đó cho thấy không phải một tin tức được nhiều người nói hay
nhiều người tin thì tin ấy là sự thật.
Một người
trong quá khứ có nhiều hành động chứng tỏ họ là người rất tốt, thì ta đừng vội
tin những lời đồn xấu về người ấy, mặc dù điều ấy vẫn có thể xảy ra. Những người
tin quá dễ dàng những tin đồn, những tin được tung lên mạng internet mà không
hề suy nghĩ xem thật giả ra sao, chuyện đó có hợp lý không, người nói ra thuộc
hạng người nào, có uy tín không, chính người ấy chứng kiến sự việc hay chỉ nghe
người khác thuật lại… thì người ấy dù có được nhiều người suy tôn là đạo cao
đức cả, hay có nhiều bằng cấp cao, thì về mặt chính trị vẫn thuộc thành phần
dân trí thấp!
2) Đòi hỏi bằng chứng cần và đủ:
Một kết
luận được phát biểu chắc chắn như đinh đóng cột mà không có bằng chứng hay
không có đủ bằng chứng thì cũng không nên tin. Mới thấy một đôi nam nữ thỉnh
thoảng đi chung với nhau, hay thường rủ nhau uống cà-phê mà vội cho rằng họ có
tình ý với nhau thì quả là hồ đồ. Trước một bức hình của người dân trong nước
ra hải ngoại mà đằng sau có lá cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH thì công an CSVN
thường chụp mũ người đó là phản động, là chống lại chế độ, như thế thật hồ đồ!
Đâu phải cứ đứng dưới lá cờ nào thì có nghĩa là mình theo lá cờ ấy! Mấy tháng
trước đây, ông Trương Tấn Sang qua Mỹ gặp Tổng thống Obama chắc chắn có nhiều
tấm hình ông ta đứng dưới lá cờ Mỹ. Điều đó phải chăng là ông ta theo Mỹ? Hay
ông bắt tay và ngồi nói chuyện với Obama thì có nghĩa là ông theo Obama? Nếu
đấu tranh dân chủ mà cũng hồ đồ như việt cộng, dân trí không cao hơn bọn chúng
thì làm sao thực hiện được dân chủ, vốn đòi hỏi mức dân trí phải tương đối cao.
Bằng chứng
cần mà chưa đủ cũng không thể kết luận chắc chắn được. Hai tam giác mới có hai
cạnh bằng nhau thì không thể kết luận chúng bằng nhau được. Thấy một người cầm
cờ đỏ sao vàng giông giống người bạn mình quen đã kết luận chắc chắn người bạn
ấy theo việt cộng thì quả là hồ đồ, vì trên đời có biết bao người na ná giống
nhau. Kết luận theo tinh thần “thà bắt lầm hơn bỏ sót”, hay “thà kết án
sai, oan còn hơn là để người có tội
không bị kết án” thì chỉ thích hợp với chế độ cộng sản thôi.
3) Suy nghĩ, tìm hiểu, kiểm chứng lại:
Sau khi
nghe một tin nào đó và mình đã áp dụng hai nguyên tắc trên để tìm hiểu sự việc mà
vẫn không xác định được thật giả thì ta cần phải tìm cách kiểm chứng, không nên vội
xác định tin đó là thật hay giả, đúng hay sai. Hãy tạm thời để bụng, treo phán
đoán của mình về sự việc ấy cho tới khi mình kiểm chứng được cách này hay cách
khác. Những người suy nghĩ chín chắn chỉ dám kết luận sau khi đã phối kiểm những
bằng chứng về sự việc. Hãy áp dụng nguyên
tắc của Descartes: “Chỉ tin sau khi đã chứng minh”.
Thể chế
dân chủ chỉ có lợi khi người dân trưởng thành trong khả năng nhận định sự việc
liên quan đến việc chung. Nếu người dân tin quá dễ dàng những lời tuyên truyền,
sẵn sàng nhắm mắt lại để người khác dẫn mình đi đâu tùy ý chứ không dám tin vào
chính đôi mắt của mình, thì ý kiến hay cách nhìn của họ chỉ là ý kiến hay cách
nhìn của một ai đó chứ không phải của họ. Nếu người dân không dám nhìn bằng mắt
mình, nghe bằng tai mình, ngửi bằng mũi mình, suy nghĩ bằng khối óc của mình,
mà bằng mắt, mũi, tai hay trí óc của người khác, thì thể chế dân chủ không hẳn
đã thích hợp với họ.
Chúng ta
đã chọn thể chế dân chủ, và cương quyết chống lại độc tài, thì chúng ta cần
phải chuẩn bị dân trí thích hợp với thể chế dân chủ, để thể chế này thật sự ích
lợi cho dân tộc. Đó là việc chúng ta phải làm ngay từ bây giờ chứ không phải
chờ đến khi chế độ cộng sản sụp đổ mới bắt đầu làm.
Nguyễn
Chính Kết