TheKetCuaBoChinhTriVietCong

Thế kẹt của Bộ Chính trị Việt cộng
trước sự xâm lăng của Tầu cộng

Nguyễn Chính Kết

Bản chất của cộng sản nói chung là gian trá, không chỉ với người dân, với thế giới, mà còn gian trá cả với nhau. Do đó, không chỉ người dân và thế giới là nạn nhân bị cộng sản lường gạt, mà chính Việt cộng cũng bị Tầu cộng lường gạt thê thảm.

Để thực hiện mộng bành trướng bờ cõi hầu giải quyết nạn nhân mãn và phát triển kinh tế, Tầu cộng hằng mong Việt Nam trở thành một tỉnh của họ. Khởi đầu cho tham vọng này là việc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Để chuẩn bị việc xâm chiếm này, Tầu cộng đã lợi dụng tình huynh đệ giữa hai nước cộng sản để lừa các cán bộ lãnh đạo Việt cộng ký công hàm 1958 công nhận chủ quyền của Tầu cộng trên Biển Đông bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lúc ấy thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong cuộc chiến chống Miền Nam Tự Do, Bộ Chính trị Việt cộng đã cầu viện Xô cộng và Tầu cộng. Hai nước đồng chí này đã tích cực giúp Việt cộng rất nhiều về vũ khí, quân trang, lương thực, nhân sự, tài lực… trong việc tấn công Miền Nam. Nhưng khi chiếm được Miền Nam, Bộ Chính trị Việt cộng liền trở mặt ngay với Tầu cộng, để chỉ còn bám vào Xô cộng như quan thầy bảo trợ cho chế độ độc tài của mình. Lúc ấy, hai nước cộng sản đàn anh này đang xích mích với nhau, thậm chí thù nghịch nhau.

Để dạy cho bọn Việt cộng đàn em phản phúc “ăn cháo đái bát” này một bài học để đời, năm 1979, Tầu cộng đã huy động một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu tấn công Việt cộng dọc biên giới Việt-Tầu. Cuộc chiến này làm thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhất là về nhân sự cho Tầu cộng. Bù lại, nhân cuộc chiến này, Tầu cộng đã di chuyển nhiều cột mốc biên giới về phía Việt Nam hàng cây số, khiến Việt Nam bị thiệt hại nhiều về mặt lãnh thổ.

Năm 1989, không may cho Việt cộng vì Xô cộng cùng cả khối cộng sản Đông Âu đột ngột sụp đổ. Mất chỗ dựa cho sự tồn tại của mình, Bộ Chính trị Việt cộng đành phải muối mặt trở về với Tầu cộng mà mình đã trở mặt phản bội, để nước đàn anh này thay Xô cộng bảo trợ cho chế độ độc tài của mình. Đương nhiên, sự trở lại này phải trả giá vô cùng mắc, đó là những mật ước về biên giới Việt-Tầu, trong đó Bộ Chính trị Việt cộng phải nhường cho Tầu cộng một phần đất và biển của tổ quốc để được nước đàn anh cộng sản này giúp chế độ tồn tại khi gặp nguy hiểm. Những mật ước này Bộ Chính trị Việt cộng đã phải dấu nhẹm với nhân dân và coi là bí mật quốc gia. Kể từ đây, giới lãnh đạo Việt cộng chỉ vì tham quyền cố vị bằng mọi giá nên ngày càng lệ thuộc vào Tầu cộng, thậm chí trở thành tay sai của chúng, hầu nhận được sự bảo trợ của chúng.

Biết rõ bản chất tham quyền cố vị của bọn đàn em phản phúc này, bề ngoài Tầu cộng đưa ra chính sách ngoại giao 16 chữ vàng buộc bọn đàn em này phải đơn phương tuân giữ, bề trong thì dùng tiền bạc và mỹ nhân mua chuộc và gài bẫy chúng hầu chuẩn bị cho chương trình thôn tính Việt Nam. Nhiều thành viên bộ chính trị Việt cộng, do mê gái, ham tiền, tham quyền, đã rơi vào bẫy Tầu cộng, đã ký với Tầu cộng những mật ước nói trên.

Ngoài việc nhượng đất nhượng biển, bộ chính trị Việt cộng đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho Tầu cộng dễ dàng xâm chiếm Việt Nam, bất chấp sự phản đối của rất nhiều người dân, đặc biệt giới trí thức và giới cựu đảng viên cộng sản. Chẳng hạn:

a-Cho chúng lập khu tự trị tại Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác bôxít, trong khi Tây Nguyên là một vị trí chiến lược quan trọng đối với sự sống còn của Việt Nam;

b-Cho chúng lập đường xe lửa cao tốc chạy thẳng vào Việt Nam;

c-Cho chúng đưa dân của chúng vào Việt Nam một cách tự do không cần visa, nghĩa là không thèm kiểm soát họ, và họ đã lập nên những làng Trung Quốc tại Việt Nam;

d- Cho chúng trúng thầu rất nhiều công trình xây dựng tại Việt Nam;

e-Cho chúng thuê rừng dài hạn (50 năm), chúng làm gì trong đó mình không kiểm soát được;

f- Đường mòn Hồ Chí Minh được mở mang rộng rãi tạo điều kiện rất thuận lợi cho chúng đưa quân chạy thẳng vào Miền Trung và Miền Nam Việt Nam...

Tất cả những việc làm trên chẳng khác nào người trong nhà kết thân với kẻ cướp và giao hết chìa khóa nhà cho chúng, tạo điều kiện cho chúng muốn xông vào nhà lúc nào tùy ý. Một khi kẻ cướp đã có đủ điều kiện để vào nhà bất cứ lúc nào mà chúng không vào thì mới là điều lạ. Do đó, không có gì bảo đảm rằng Tầu cộng sẽ không xâm chiếm Việt Nam khi điều ấy rất phù hợp với tham vọng của họ. Do đó, dân tộc Việt Nam đang ở trong tình trạng hết sức nguy hiểm có thể bị mất nước vào tay Trung cộng.

Hiện nay, Bộ Chính trị Việt cộng đang lâm vào một thế hết sức kẹt giữa hai gọng kìm:

1) Một đằng Tầu cộng bắt đầu tiến hành chiếm những vùng đất, vùng biển mà Bộ Chính trị Việt cộng đã mật ước nhượng cho chúng. Trước sự việc ấy, Bộ Chính trị Việt cộng “há miệng mắc quai” không còn nói gì được! Đã lỡ ký kết những mật ước nhượng đất nhượng biển cho Tầu cộng để nhận được một số những quyền và lợi nào đó, bây giờ Tầu cộng đến để nhận những vùng đất và biển đã được nhường cho chúng, Việt cộng nào dám phản đối? Nếu có phản đối dù bằng cách nào thì cũng chỉ là “giả vờ phản đối”, phản đối lấy lệ để che mắt người dân, đâu dám phản đối thật! Nếu phản đối mạnh hay lên tiếng kiện Tầu cộng trước Liên Hiệp Quốc như nhiều người dân đề nghị thì vô cùng nguy hiểm, vì lúc ấy Tầu cộng có thể sẽ công khai hóa những mật ước đã ký kết thì Bộ Chính trị Việt cộng sẽ bể mặt! Nhân dân sẽ phẫn nộ cực điểm và sẽ đi đến biểu tình cả nước đòi lật đổ chế độ thì một cuộc cách mạng tương tự như Hoa Lài sẽ xảy ra tức khắc. Thà cứ để Tầu cộng từ từ lấn chiếm, cứ phản đối qua loa cho có lệ để người dân đỡ tức giận, chờ đến lúc chuyện đã rồi thì… Bộ Chính trị Việt cộng cũng đã mua được thời gian để tại vị thêm khá lâu và hy vọng đủ thời gian để chuẩn bị những cuộc đào thoát!

2) Một đằng người dân trong nước đang thức tỉnh trước thảm họa mất nước ngay trước mắt với một viễn ảnh hết sức đen tối cho họ. Vì thế họ đã mạnh dạn biểu tình phản đối Tầu cộng khi chúng trắng trợn và ngang ngược xâm phạm lãnh thổ lãnh hải, lại còn dám tuyên bố chủ quyền của chúng trên những phần đất và biển mà từ xưa đến nay là của Việt Nam. Người dân có ngờ đâu những phần đất biển ấy đã bị Việt cộng mật ước nhượng cho Tầu cộng!

Nếu cứ để dân chúng biểu tình phản đối Tầu cộng thì Bộ Chính trị Việt cộng sẽ bị Tầu cộng “gõ đầu”, “dạy cho bài học” như năm 1979, hoặc sẽ công khai những mật ước mà đã ký kết với Tầu cộng thì… rất nguy hiểm cho chế độ. Nhưng nếu đàn áp biểu tình thì Việt cộng sẽ lộ quá rõ bản chất đồng lõa và bán nước của mình. Điều này sẽ làm dân chúng tức giận, và trước nguy cơ mất nước họ sẽ sẵn sàng liều chết để bảo vệ quê hương, cũng là bảo vệ chính bản thân họ và người thân của họ.

Trước nguy cơ mất nước vào tay Tầu cộng, ngay những kẻ đang hưởng “ơn mưa móc” của chế độ -đặc biệt quân đội và công an, những kẻ đang chủ trương “còn đảng còn mình”-cũng phải đặt lại vấn đề: Nếu đất nước lọt vào tay Tầu cộng thì số phận mình sẽ ra sao? Có được yên thân không? Liệu còn được hưởng những đặc ân như bây giờ không? -Với chính sách “vắt chanh bỏ vỏ” của Tầu cộng, tương tự như của Việt cộng xưa nay, thì ngay cả những tên bán nước “gộc” trong Bộ Chính trị cũng sẽ bị Tầu cộng “bỏ sọt rác”, thậm chí bị vào tù hoặc bị thủ tiêu vì không cần tới nữa, huống gì “bọn tép riu”! Lời của Phạm Lãi nói với Văn Chủng xưa: “Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị nấu” (*1) chắc chắn sẽ được áp dụng đối với cả bộ chính trị lẫn bọn tay sai!

Gương của “Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam” với Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng... hay của bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Hạnh Long (*2), hoặc mới đây của Trần Trường (3*), hoặc của những tên “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”… còn sờ sờ ra đấy! Công lao của họ giúp cho Việt cộng cướp được chính quyền và tồn tại lớn thế nào? nhưng khi đã đạt được mục đích thì chúng đã đối xử với họ ra sao?

Khi đất nước lọt vào tay Tầu cộng, dân Việt sẽ không chịu nổi chính sách cai trị của Tầu cộng -vốn đã hết sức hà khắc đối với chính người dân của họ-chắc chắn sẽ hà khắc hơn rất nhiều với dânViệt. Không chịu nổi sự cai trị hà khắc ấy, người dân sẽ nổi loạn. Kết cục là sẽ có từng trăm, từng ngàn người dân Việt bị Tầu cộng đưa vào tù hoặc đưa đi tử hình hàng loạt.

Người Việt còn lạ gì sự tàn bạo vô cùng phi nhân của Tầu cộng đối với các thành viên Pháp Luân Công, vốn cũng là người Trung Hoa như chúng: họ không hề chống chính quyền hay làm điều gì có hại cho đất nước, cho đảng cộng sản của chúng cả. Tầu cộng sở dĩ chủ trương tiêu diệt Pháp Luân Công và đối xử hết sức tàn ác với các thành viên phong trào này chỉ vì chúng “sợ bóng sợ gió” phong trào thể dục này ngày càng lớn mạnh sẽ ảnh hưởng quần chúng hơn đảng cộng sản của họ.

Khi Việt Nam bị Tầu cộng thôn tính, dân Tầu cộng -vốn quá đông-sẽ tràn sang Việt Nam, họ sẽ được Tầu cộng tạo điều kiện thuận lợi mọi mặt. Dân Việt đương nhiên bị bạc đãi, bị vào tù, bị giết chết, dần dần sẽ trở thành thiểu số ngay trên quê hương mình, tương tự như dân Tây Tạng hiện nay tại quê hương của họ. Một viễn cảnh hết sức đen tối đang bao trùm lên toàn dân Việt Nam.

Trước nguy cơ mất nước, người dân dù có ích kỷ và thờ ơ với vận mệnh đất nước tới đâu cũng phải giật mình thức tỉnh, vì mất nước là mất tất cả. Việc Tầu cộng trắng trợn xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam như một cái tát tai, không chỉ vào mặt bộ chính trị của Việt cộng, mà vào cả dân tộc Việt Nam, đánh thức tất cả những ai đang ngủ mê trong sự yên thân, lãnh đạm với những vấn đề của đất nước, phải tỉnh dậy!

Cách hành xử của Việt cộng trong quá khứ không chỉ dồn chúng, mà còn dồn toàn dân Việt Nam vào thế kẹt. Người dân chỉ còn một chọn lựa: bảo vệ đất nước hay là chết, buộc họ phải hành động, phải biểu tình chống lại Tầu cộng. Nếu biểu tình ôn hòa mà bị Việt cộng đàn áp, người dân lập tức bị dồn vào thế buộc phải bạo loạn để lật đổ chế độ hầu bảo vệ đất nước, cũng là bảo vệ chính bản thân và gia đình họ. Không lật đổ chế độ bán nước đang cầm quyền thì nguy cơ bị Tầu cộng thôn tính không sao tránh được!!!

Nhìn vào thái độ của Việt cộng trong những cuộc biểu tình của giới trẻ vào các ngày Chúa nhật mùng 5, 12 và 19 tháng 6 vừa qua, ta thấy Việt cộng đã đứng hẳn về phía Tầu cộng chống lại những cuộc biểu tình ôn hòa phản đối Tầu cộng xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Trong cuộc biểu tình ngày 5/6, Việt cộng tuy không đàn áp nhưng chúng đã quay phim chụp hình để biết rõ những sinh viên nào tỏ ra năng nổ, hăng hái hầu tìm ra những người huy động biểu tình. Chiến thuật của chúng là “đánh rắn phải đánh vào đầu” như cổ nhân đã dạy. Vì thế, trong cuộc biểu tình ngày 12/6tại Sàigòn, chúng đã bắt đi một số người, chắc hẳn là những người chúng thấy năng nổ trong cuộc biểu tình trước: Có người mới chỉ ngồi ở công viên hay quán cà phê trước khi cuộc biểu tình 12/6 xảy ra: dù chưa làm gì cả, họ đã bị chúng bắt lên xe chở đi. Qua hai cuộc biểu tình đầu, chúng đã phần nào nắm được những sinh viên tỏ ra hăng hái… Có thể chúng không bắt “nóng” ngay tại chỗ vì sợ bị chụp hình và có chứng cớ đàn áp, nhưng sẽ bắt “nguội” khi các sinh viên đã về nhà. Tuần lễ sau ngày 12/6, những thanh niên bị chúng điểm mặt là huy động biểu tình hoặc tỏ ra hăng say nhiệt tình trong những cuộc biểu tình đều đã bị mời làm việc, bị canh chừng theo dõi chặt chẽ. Đến Chúa nhật 19/6, họ chỉ có thể ở lại nhà hoặc bị bắt ra đồn công an, không thể đến được nơi biểu tình. Vì thế ngày 19/6, đám đông biểu tình không có người huy động hay liên lạc, nên cuộc biểu tình tại Sàigòn không thành hình được.

Rõ ràng công an Việt cộng có những biện pháp tinh vi để chống lại những cuộc biểu tình yêu nước. Vì thế, ngoài lòng can đảm, các sinh viên còn cần sự khôn ngoan, mưu lược và cẩn trọng trong cuộc đấu tranh gian khổ nhưngtối cần thiết này.

Bản chất bán nước của Bộ Chính trị Việt cộng đã lộ rất rõ. Nếu người dân để im không có phản ứng thích hợp, đất nước chắc chắn sẽ rơi vào tay Tầu cộng với sự tiếp tay đắc lực của bọn chúng.

Trước nguy cơ khẩn cấp này mà các vị lãnh đạo tôn giáo vẫn thờ ơ, vẫn ngoan cố chủ trương “đối thoại với đầu gối” thì họ quả là những người vô tâm, vô trí và vô trách nhiệm. Nếu dân chúng cũng noi gương họ thì đất nước có bị ngoại bang thôn tính cũng là… chuyện tự nhiên, dễ hiểu! Lúc đó thử hỏi các tôn giáo sẽ ra sao?

Vấn đề nghiêm trọng mà dân Việt hiện nay đang phải đối đầu là: “Chống Tầu cộng hay là chết”. Nhưng không thể chống Tầu cộng hữu hiệu nếu Việt cộng vẫn tiếp tục nắm quyền!

Houston, ngày 19-06-2011

Nguyễn Chính Kết

___________________

Phụ chú:

(*1) Để hiểu rõ ý nghĩa câu này, xin đọc thêm: http://maxreading.com/sach-hay/giai-thoai/duoc-chim-be-na-duoc-ca-quen-nom-4756.html

(*2) Cần biết thêm chi tiết xin tham khảo bài “Bà Cát Hạnh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh” của Nguyễn Quang Duy: http://8406vic.blogspot.com/2010/07/ba-cat-hanh-long-nguyen-thi-nam-va-ong.html.

Trong thời gian đảng cộng sản còn hoạt động bí mật, bà Nguyễn Thị Năm, còn được gọi là bà Cát Hanh Long, một bà giàu có ở tỉnh Thái Nguyên, đã từng che giấu, bảo vệ, nuôi dưỡng, giúp đỡ các lãnh tụ cộng sản như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... Trong “Tuần lễ vàng” do Hồ Chí Minh phát động từ ngày 16 đến 24-9-1945 để gây quỹ cho đảng cộng sản hoạt động, bà Năm đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng vàng. Hai con trai bà là ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Công lao và ơn nghĩa của bà đối với Việt Minh lớn như thế, nhưng...

Khi phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1953, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên được chọn làm thí điểm, người đầu tiên bị mang ra xử bắn để làm gương lại chính là bà Nguyễn Thị Năm. Lúc đó, hai con của bà thì ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.

Lúc chưa cướp được chính quyền, Việt Minh rất trọng vọng bà, để có thể tiếp tục rút hầu bao và lòng tốt của bà. Khi đã cướp được chính quyền, họ đâu cần bà nữa, giết bà đi sẽ đỡ cho cộng sản phải mất công trả ân trả nghĩa...!

(3*) Có thể tham khảo thêm về nhân vật Trần Trường này tại:

http://www.mautam.net/forum/viewtopic.php?p=374884&sid=9114c468c94bda3f7999c1093a153633;
http://www.youtube.com/watch?v=93v0XlGqECE




TRỞ VỀ MỤC LỤC

______________________________________________________________________